08 March 2009

Picasso - Kẻ cắp vĩ đại

Nhân ý kiến của Phương Anh (lớp TC BC): Thưa thầy, sau khi học ngành báo chí, em đọc báo đã biết tập tành phân tích, chứ không đơn giản là chỉ đọc để biết thông tin như trước đây. Nhưng em vẫn chưa biết ăn cắp ý như John Updike. Thầy có nghĩ em nên thử?

Chúc thầy cuối tuần nhiều sức khỏe!

Giờ mời Phương Anh và các bạn đọc thêm bài dưới đây về Picasso - một “kẻ cắp vĩ đại”.

Chúc tất cả vui, đặc biệt là các bạn gái, trong ngày 8.3.


Picasso, một đời dữ dội

Cuộc triển lãm nghệ thuật của năm đang diễn ra tại Paris (từ ngày 8 tháng 10 và kéo dài bốn tháng). Đây là cuộc “hội ngộ” giữa bậc thầy của thế kỷ 20, Picasso với các danh họa đã truyền cảm hứng sáng tạo cho ông, từ Greco cho đến Van Gogh, Velazquez, Manet.

Rất dễ nhận thấy sự có mặt của các họa sĩ từ Greco cho đến Velazquez, Ingres cho đến Pousin hay cả Cranach và Grünewald trong nhiều tác phẩm của Picasso. Ông tự coi mình là người thừa kế của những danh họa đi trước này. Ông viết: “Họa sĩ luôn kế thừa một người nào đó. Họ không sáng tạo từ hư vô.”

Câu nói này là ý tưởng cho cuộc triển lãm đặc biệt về sự hội ngộ giữa Picasso và những họa sĩ đi trước mang tên “Picasso và các bậc thầy”.

Picasso đã dành cả cuộc đời mình cho nghệ thuật. Ông sáng tác bằng chính những ảo ảnh của mình và làm việc say mê cho đến khi qua đời ở tuổi 91. Cuộc đời kéo dài gần một thế kỷ này đã để lại bộ sưu tập đồ sộ với khoảng 60.000 tác phẩm.

Ngoài vẽ tranh, ông còn sáng tác nhiều tác phẩm điêu khắc, tranh khắc, đồ gốm, tranh giấy dán, quần áo và trang trí nhà hát. Picasso là nhà cách mạng nghệ thuật thế kỷ 20 và là một trong những người sáng lập trường phái lập thể. Ông cũng không ngừng đổi mới khi theo đuổi trường phái siêu thực và nguyên thủy.

Không chỉ là thiên tài của thế kỷ, Picasso đã đi vào Lịch sử. Ông đã thể hiện tính hiện đại nhưng vẫn không ngừng tiếp nối truyền thống. Picasso đã theo học tại các viện nghệ thuật hàn lâm, nơi ông khi bắt đầu tiếp xúc với hội họa, trước khi đến Pháp vào đầu những năm 1900.

ABC về Picasso.

A như Ấu nhi

Pablo Picasso sinh ngày 25 tháng 10 năm 1881 tại Malaga, Tây Ban Nha. Ông là con cả của Don José Ruiz và Maria Picasso Lopez. Sau ông còn có hai em gái Lola và Conchita. Tên đầy đủ của Picasso là Pablo Diego José Francisco de Paula Juan Nepomuceno Crispin Crispiniano de la Santisima Trinidad Ruiz Blasco Picasso y Lopez.

B như Biểu tượng

Hai bức tranh nổi tiếng nhất của Picasso đã trở thành biểu tượng. Đó là “Những cô nàng ở Avignon” và “Guernica”. Khi ông trưng ra bức “Những cô nàng ở Avignon” vào năm 1907 trong xưởng vẽ Bateau-Lavoir, mọi người đều cảm thấy kinh hoàng. Những người bạn của ông như Apollinaire, Braque, Matisse không thể hiểu nổi việc ông quay trở lại với xu hướng nguyên thủy. Năm 1924, Jacques Doucet, một nhà thiết kế thời trang đã mua tác phẩm này.

Sau khi Doucet mất, nó được bán cho phòng tranh Seligmann ở New York. Cùng năm đó, bảo tàng MoMA đã mua lại bức tranh này. Đây là lúc “Những cô nàng Avignon” bắt đầu được trưng bày trước công chúng và được coi như “bức tranh đầu tiên của nghệ thuật hiện đại”.

Một biểu tượng khác là bức Guernica cũng ra đời vào thời kỳ này. Vụ máy bay Đức, đồng minh của những người theo chế độ Franco, ném bom vào ngôi làng nhỏ ở xứ Basque đã truyền cảm hứng cho Picasso vẽ bức tranh bi thảm này. Tác phẩm được giới thiệu lần đầu trong khu vực Tây Ban Nha tại Triển lãm quốc tế và người xem thời đó cũng chưa hiểu nó muốn nói gì.

Guernica dừng chân ở New York năm 1939. Theo ý muốn của Picasso, nó được lưu giữ tại bảo tàng MoMA. Tác phẩm này quay lại bảo tàng Padro năm 1981 và sau đó được chuyển đến bảo tàng quốc gia Reina Sofia năm 1992.

D như Danh tiếng

Năm 1939, bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại MoMA ở New York đã tổ chức buổi triển lãm lớn đầu tiên để vinh danh Picasso. Từ đấy, ông được nước Mỹ ca ngợi như nghệ sĩ vĩ đại nhất thế kỷ 20. Tên tuổi ông thực sự được cả thế giới biết đến từ những năm 1950. Sau đó, các cuộc triển lãm tranh Picasso liên tiếp diễn ra tại London hoặc Milan.
Nhưng nước Pháp vẫn thờ ơ với Picasso, dù một cuộc triển lãm tranh của ông đã được tổ chức vào năm 1955 tại bảo tàng Nghệ thuật trang trí Paris. Khi André Malraux trở thành bộ trưởng Văn hóa, ông đã sửa chữa sự chậm trễ này bằng việc tổ chức một triển lãm hoành tráng để kỷ niệm sinh nhật 85 tuổi của Picasso vào năm 1966.

Năm 1971, khi danh họa đã ở tuổi 90, Nhà nước Pháp muốn vinh danh ông. Tổng thống Pháp Georges Pompidou đã cho đặt 8 bức tranh của Picasso trong Phòng Tranh Lớn ở bảo tàng Louvre. Đây là lần đầu tiên tranh của một họa sĩ còn sống được treo trong bảo tàng này.

Năm 1973, sáu tuần sau khi ông mất, một cuộc triển lãm trưng bày những sáng tác cuối cùng Picasso đã bị chỉ trích rất nặng nề. Chỉ đến năm 1985, việc khánh thành bảo tàng Picasso mới giúp người Pháp hiểu rõ hơn về các tác phẩm của ông.

Đ như đàn bà

Những người phụ nữ, từ nữ thần cho đến nữ tu, đều ám ảnh tác phẩm của Picasso. Là tấm gương phản chiếu cảm xúc và niềm đam mê của ông, họ ảnh hưởng đến các sáng tác của người họa sĩ. Đó cũng chính là lý do dẫn đến những thay đổi về màu sắc và phong cách của Picasso qua các thời kỳ. Thời kỳ Xanh, với những bức tranh đầu tiên được vẽ chủ yếu bằng màu xanh, phản ánh sự khốn cùng và vỡ mộng. Khi gặp Madeleine - một người mẫu hoạt bát - vào năm 1904 ở Lapin, và sau đó là Fernande, người tình của ông ở Bateau-Lavoir, Picasso chuyển sang Thời kỳ Hồng.

Năm 1918, ông cưới Olga, một diễn viên balê người Nga có khuôn mặt đức mẹ. Trong thời gian này, ông đã thôi vẽ những khuôn mặt nhỏ mang tính hình học của trường phái lập thể và chuyển sang trường phái hàn lâm cho phù hợp với người vợ ông yêu quý.
Cô gái trẻ trung và dịu dàng Marie-Thérèse đã đánh thức các giác quan và năng lực sáng tạo của người họa sĩ. Trong những năm 1930, Marie-Thérèse là nguồn cảm hứng cho những tác phẩm khêu gợi đẹp nhất của ông với những đường cong quyến rũ.

Nhưng chính Dora Maar, một nữ trí thức, mới là người được ông đưa vào bức Guernica thể hiện thảm kịch ở Guernica và nỗi đau chiến tranh với những đường nét quằn quại.
Rồi Françoise bước vào cuộc đời ông năm 1954. Người phụ nữ có dáng vóc thon thả và mái tóc đen huyền này là biểu tượng của hạnh phúc ông vừa tìm lại được.

Năm 1961, ở tuổi 80, Picasso đã cưới Jacqueline, người cố vấn trong suốt 20 năm cuối đời của ông. Bà gợi lại cho ông hình ảnh những cung phi trong tranh của Delacroix. Sợ hãi cái chết và bị sự bất lực tình dục ám ảnh, ông lao vào làm việc không biết mệt mỏi.

Người ta đã thống kê được hơn 200 bức chân dung Jacqueline do Picasso vẽ.

C như Chính trị

Việc Franco lên nắm quyền ở Tây Ban Nha đã khơi dậy ý thức chính trị trong Picasso. Khi cuộc nội chiến bùng nổ năm 1936, ông đã ủng hộ những người cộng hòa và góp tiền giúp họ. Chính phủ cộng hòa đã bổ nhiệm ông làm giám đốc danh dự của bảo tàng Padro (Madrid).

G như Guernica

Khi Otto Abetz, đại sứ Đức quốc xã tại Paris, chỉ tay vào tấm ảnh chụp bức tranh Guernica rồi hỏi Picasso: “Ông đã vẽ nó phải không?” Người họa sĩ đã trả lời: “Không. Chính là các ông đấy.”

H như hậu duệ

Picasso chưa bao giờ đứng đầu một trường phái nào. Nhưng tranh của ông đã cuốn hút những họa sĩ Mỹ theo xu hướng “Hội họa hành động” (action painting), một phong trào ra đời những năm 1950. Việc sử dụng khổ tranh lớn, những màu sắc đối lập, những sự phá cách hình thể đã gây ấn tượng với Franz Kline, Mark Rothko, Willem De Kooning, Robert Motherwell và Jackson Pollock. Họ có thể ngắm những bức tranh của Picasso tại MoMA (New York), nhất là bức Guernica. Tác phẩm này đã được trưng bày ở đây từ năm 1939 đến năm 1981, nhưng sau đó nó đã được trả về Madrid.

Pollock đã thực hiện hàng trăm tác phẩm biến tấu tự do từ Guernica và chúng trông còn còn ác mộng hơn cả bức tranh này nữa.

Họa hội lại được ưa chuộng trong những năm 1980, kéo theo sự trở lại của Picasso và rồi đỉnh cao của danh họa Tây Ban Nha này.

K như Kỷ lục

Giá cả các tác phẩm của Picasso tăng lên ở mức chóng mặt. Năm 2004, “Chàng trai ngậm tẩu”(1904), một bức tranh bậc thầy trong Thời kỳ Hồng, đã được bán với giá kỷ lục: 93 triệu đôla Mỹ. Năm 2006, Bức “Nàng Dora Maar với chú mèo” (1941) cũng được bán với giá rất cao: 85 triệu đôla.

Năm 2007, trong một cuộc đấu giá tranh, bức “Người phụ nữ khom mình trong trang phục Thổ Nhĩ Kỳ” (vẽ Jacqueline năm 1955) đã được trả 27,5 triệu đôla. Theo sau đó là bức “Đầu người phụ nữ” (vẽ Dora Maar) có giá 26 triệu đôla.

Năm 2007, tổng số tiền thu được từ những tác phẩm của Picasso đã lên đến 319 triệu đôla. Nhưng cũng năm đó, lần đầu tiên trong 10 năm, Picasso đã bị Warhol vượt qua. Ngân hàng dữ liệu về các tác phẩm nghệ thuật Artprice phân tích: “Vị trí thứ hai này chẳng phản ánh được điều gì cả. Doanh số bán tranh của Picasso thấp hơn là do sự khan hiếm các tác phẩm mang tính huyền thoại của ông.”

L như Lưu giữ

Khi qua đời vào năm 1973, Picasso đã để lại 1.800 bức tranh, 1.300 tác phẩm điêu khắc, 7.000 bức vẽ và 700 tác phẩm gốm. Vào thời điểm đó, khối tài sản này có giá trị được ước tính lên đến hơn 1 tỷ franc (tức 150 triệu euro). Luật Malraux ra đời năm 1986 cho phép người thừa kế trả tiền thuế bằng cách tặng các tác phẩm cho Nhà nước Pháp. Nhờ vào thủ tục cho tặng này, một bảo tàng đã ra đời. Bảo tàng này được đặt tại khách sạn Salé (quận Marais, Paris) và mở cửa vào năm 1985.

Đây là dịp để nước Pháp sửa chữa sự chậm trễ của mình. Vì vào thời điểm được tặng, Pháp chỉ sở hữu khoảng một chục tác phẩm của Picasso trong các bộ sưu tập quốc gia. Sau khi Pháp đã mua lại và được tặng thêm các tác phẩm khác vào năm 1990, con số này lên đến 5.000 tác phẩm gốc, 200.000 bức ảnh, bản chép tay và bản in. Hiện nay, đây là bộ sưu tập quốc gia lớn nhất thế giới.

N như Nhãn hiệu

Picasso quá nổi tiếng. Không có gì ngạc nhiên khi từ Mỹ cho đến Trung Quốc, mọi người đều muốn dán nhãn “Picasso” lên đủ loại đồ vật như kính nhà vệ sinh, màn phòng tắm, giấy vệ sinh, dép tông, máy cày đẩy tay và cả … kem.

Để hạn chế việc sử dụng lung tung các tác phẩm của họa sĩ bậc thầy, năm người thừa kế trực tiếp của ông, đứng đầu là Claude Picasso, đã thành lập tổ chức quản trị Picasso Administration vào năm 1995. Nhưng Christine Pinault mới là người đứng đầu tổ chức này. Mỗi năm, bà phải xem xét hơn 2.000 yêu cầu xin được khai thác nhãn hiệu “Picasso”. Hai phần ba trong số đó là từ nước ngoài. Pinault cho biết: “Phần lớn những là yêu cầu xin sử dụng các tác phẩm của Picasso cho các catalô triển lãm, sách, tạp chí hoặc bưu thiếp. Một số khác là để in lên áo hoặc bộ chén đĩa uống cà phê.”

Những điều kiện không thể thiếu để được phép sử dụng tác phẩm của Picasso là phải sử dụng toàn bộ và giữ nguyên vẹn tác phẩm. Khoảng 15% lời yêu cầu bị từ chối.

Q như Quan hệ

Picasso đã kết bạn với những người vĩ đại nhất thế kỷ. Braque là bạn chí cốt của ông, đã cùng ông sáng lập ra trường phái lập thể từ năm 1907. Matisse, họa sĩ đi trước, là đối thủ đáng kính ông vẫn thường so sánh trong suốt cuộc đời nghệ thuật của mình. Rất nhiều nhà thơ như Apollinaire, Cocteau, Eluard, Breton, Aragon đã viết lời đề tặng cho Picasso trong các tác phẩm của họ và dấn thân cùng ông.

Năm 1955, Henri-Georges Clouzot đã thực hiện bộ phim Picasso bí ẩn tại trường quay Victorine (Nice). Bộ phim nói về lao động của Picasso, cho thấy tài năng của danh họa. Nó giành được giải đặc biệt của hội đồng giám khảo tại Liên hoan phim Cannes năm 1956. Đây là chuyện chưa từng có đối với những bộ phim làm về một nghệ sĩ vẫn đang sáng tác.

V như Vauvenargues

Picasso qua đời ngày 8 tháng tư năm 1973 tại Mougins (Alpes-Maritimes, Pháp). Ông được chôn cất trong công viên lâu đài Vauvenargues (Bouches-du-Rhône).


---------
Một số tranh "ăn cắp"

“Phụ nữ và mèo” của Picasso lấy cảm hứng từ bức “Nàng Maya khỏa thân” của Goya.

“Khỏa thân trên ghế bành đỏ”, từ “Bà Moitessier” của Ingres.

“Tĩnh vật với sọ cừu”, từ “Tĩnh vật với đầu cừu” của Goya.

“Bé gái Margarita”, từ “Chân dung Marguerite” của Vélasquez.

“Ăn trưa trên bãi cỏ”, tranh cắt giấy và tranh vẽ bút chì, từ “Ăn trưa trên bãi cỏ” của Manet.

###

3 comments:

Pham Trung said...

Thưa Thầy,

Em đọc đi đọc lại entry " kẻ cắp vĩ đại " nhưng thật sự em không hiểu lắm ạ. Chắc cò lẽ em dốt quá! hehe

Gửi Thầy thêm 1 bài viết của em. Em viết nhưng không tự tin lắm.

Kính Thầy

Phạm Trung

Cafe " Cóc "
Không biết từ khi nào, bắt nguồn từ đâu, cái tên cafe “cóc” đã tồn tại và được chấp nhận như là một tên gọi chung cho các quán cafe vỉa hè. Những quán café từ lâu đã được hình thành nên như là một nét văn hóa đặc trưng của đất nước và con người Việt nam, yêu thiên nhiên, cởi mở và thân thiện.
Có lẽ café “cóc” khởi nguồn từ những nét văn hóa mang đậm phong cách của những cư dân vùng đồng bằng với truyền thống nông nghiệp lâu đời. Ngày mùa, tinh mơ họ ra đồng, giờ nghỉ, giữa thiên niên xanh mát, họ ngồi cùng nhau bên bờ đê, bên ấm chè ( trà ) pha vội, tay vân vê se điếu thuốc rê, không cần cầu kỳ, lấy gốc cây hay đôi dép nhỏ làm ghế, bàn là mảnh khăn trải vội, họ ngồi bên nhau. Những câu chuyện về đồng áng, thôn xóm được chia sẻ từ đây.
Ngày nay, các quán café “cóc” vẫn không thay đổi nhiều về phong cách, về cơ bản vẫn còn đấy những chiếc ghế gỗ, bàn gỗ, những quán sang hơn có ghế dựa nhưng bàn vẫn là những chiếc bàn nhỏ và thấp, vẫn còn đấy ấm nước sôi lúc nào cũng nghi ngút khói dùng để pha café khi một ai đó ngồi vào quán. Cái thú vị của café “cóc” không nằm ở ly café ngon hay dở mà chính ở nơi không gian mà nó tồn tại, ở chính cái không khí thân thuộc mà nó tạo nên. Sài gòn ngày nay không thiếu những quán café sang trọng, nhưng ở những nơi đó dường như thiếu hẳn đi một cái gì đấy khi những người khách đến rồi đi một cách hối hả. Ngược lại, café “cóc” vốn không cần bất cứ một chiêu thức quảng cáo hiện đại nào vẫn tạo nên cho mình được những nét độc đáo riêng bằng phong cách của những người khách thân thuộc hàng ngày của mình. Họ đến, ngày qua ngày, bắt đầu từ ánh mắt thân thiện, cái gật đầu chào nhau, đến nụ cười, những câu chuyện …dần dần kết nối họ lại với nhau, cho đến lúc …khi họ đến quán có thể tự tay mình cầm ly café, ngồi bất cứ bàn nào cùng bác hai, anh tư…họ cũng có thể trò chuyện được. Đấy chính là cái “hồn”, cái dư vị đặc sắc nhất của café “cóc”.
Bất chấp sự phát triển của xã hội hiện đại, café “cóc” dường như thách thức thời gian, thách thức tốc độ đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng. Giới công chức văn phòng hiện nay, trong thời điểm vật giá ngày càng leo thang thì café “cóc” cũng được lựa chọn là địa điểm nghỉ trưa ưa thích vì rẻ tiền, nhanh chóng và thuận tiện. Tại TP.HCM Có những quán café “cóc” hiện trở thành những địa chỉ, đểm hẹn quen thuộc như những quán dọc đường Sương Nguyệt Anh ( quận 1 ), hoặc trên đường Trần Quốc Thảo ( quận 3 ) dành cho giới nghệ sĩ nhiếp ảnh, vài quán ở khu vực Bùi Thị Xuân, Tôn Thất Tùng ( quận 1 ) dành cho giới Tin học. Vài năm gần đây, một số quán café “bệt” nhưng thực chất cũng có nguồn gốc từ café “cóc” dành cho giới sinh viên học sinh như ở công viên 30-4 hay dọc vỉa hè Trường Đại học Kiến trúc TP.HCM trên đường Nguyễn Đình Chiểu…
Hiện nay, mặc dù việc lấn chiếm vỉa hè, lề đường để kinh doanh đang là vấn đề cấp bách về giao thông đô thị. Tuy nhiên, trong một chừng mực nào đó, café “cóc” vẫn cần được giữ gìn như một nét văn hóa đặc sắc. Các nhà quản lý đô thị cần có những qui định uyển chuyển để không vô tình làm mất đi một hình ảnh về café “cóc” vốn rất nên thơ, ẩn chứa bên trong đó một tâm hồn hiền hòa và chất phác của con người Việt nam.

Gatebeepers said...

Cảm ơn em đã chia sẻ.

Về Picasso thì em in ra và đọc chầm chậm sẽ hiểu.

Chúc em cuối tuần vui vẻ.

Unknown said...

đó không gọi là kẻ cắp đúng không thầy? Nó được gọi là kế thừa dòng cảm hứng. Thật đáng ngưỡng mộ!